CHƯƠNG IV. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. Khái niệm, bản chất và vai trò của NSNN.

  1. Khái niệm

1.1 Tiền đề xuất hiện của NSNN.

Trước đây, người ta cho rằng có Nhà nước là có NSNN, cho nên nhà nước là tiền đề cơ bản và duy nhất cho sự ra đời và tồn tại của NSNN.

Gần đây, quan niệm đó không còn chính xác, nhà nước chỉ là điều kiện cần, chưa thể khẳng định có nhà nước là có NSNN, mà nhà nước đó phải sử dụng tiền tệ.

Như vậy, có thể hiểu tiền đề xuất hiện và tồn tại của NSNN là sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ hàng hóa – tiền tệ và sự ra đời và tồn tại của nhà nước.

1.2 Khái niệm

– Quan niệm thứ 1: Xét ở thể tĩnh, NSNN là bảng tổng hợp dự toán thu – chi của nhà nước cho một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.

– Quan niệm thứ 2: Xét cả quá trình vận động, NSNN là một khâu tài chính thuộc tài chính của nhà nước tổng hợp, nhà nước sử dụng nó để động viên một khối lượng tiền tệ của xã hội vào trong tay mình để duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà nhà nước phải gánh vác.

Năm ngân sách hay còn gọi là năm tài chính hoặc tài khóa, là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính đã được phê duyệt của Quốc Hội có hiệu lực thi hành. Trước đây, năm ngân sách gồm nhiều năm dương lịch. Hiện nay, ở tất cả các nước, năm ngân sách gồm một năm dương lịch, nhưng có thời điểm bắt đầu và kết thúc khác nhau, cụ thể:

Việc qui định năm ngân sách hoàn toàn do ý định chủ quan của nhà nước, nhưng nó xuất phát từ 2 yếu tố cơ bản là đặc điểm hoạt động của nền kinh tế liên quan đến nguồn thu NSNN và đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp.



  1. Bản chất của NSNN.

NSNN là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, nó phản ánh những mặt nhất định của các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hóa – tiền tệ và nó được sử dụng như là một công cụ thực hiện các chức năng của nhà nước.

Hoạt động của NSNN rất đa dạng, phong phú nhưng về thực chất chúng phản ánh những nội dung cơ bản sau đây:

– Các hoạt động thu – chi của NSNN luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế – chính trị của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định.

– NSNN hoạt động trong lĩnh vực phân phối nguồn tài chính, và vì vậy, nó chứa đựng những mối quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác.

Từ đó, có thể kết luận bản chất của NSNN như sau: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính đảm bảo sự tồn tại của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của mình.

Các quan hệ kinh tế này bao gồm:

– Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp;

– Quan hệ kinh tế của NSNN và tổ chức tài chính trung gian;

– Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội;

– Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình;

– Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính;

– Quan hệ kinh tế giữa NSNN với tài chính đối ngoại.



  1. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.

3.1 Đặc điểm của kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. Sản xuất, trao đổi hàng hóa trên thị trường chịu sự tác động chủ yếu của qui luật giá trị, qui luật Cung- Cầu và qui luật lưu thông tiền tệ. Tác động của các qui luật đó đã đưa đến những ưu thế và khuyết điểm của KTTT.

– KTTT thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội; đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất, tăng nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất; tạo nên tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế.

– Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng mang trong lòng nó những khuyết tật nhất định như sự xuất hiện của độc quyền, tự phát và phân hóa xã hội.

+ Độc quyền làm cho giá cả không phản ánh được quan hệ Cung – Cầu; hạn chế sản lượng sản xuất, dẫn đến thất nghiệp tăng.

+ Tự phát là căn bệnh của kinh tế thị trường, dẫn đến mất cân đối cơ cấu kinh tế.

+ Mục tiêu cao nhất của kinh tế thị trường là lợi nhuận. Cho nên sử dụng phung phí tài nguyên; chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến quyền lợi chung dẫn đến phân hóa xã hội.

Với những khuyết tật đó, bản thân kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được, cần có sự can thiệp của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế là một đòi hỏi khách quan nhằm khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường, bằng các công cụ chủ yếu như: pháp luật, kế hoạch, tổ chức, tài chính, tiền tệ… Trong các công cụ đó, NSNN được xem là công cụ quan trong nhất.



3.2 Vai trò của NSNN

* NSNN là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước và thực hiện sự cân đối thu – chi tài chính của nhà nước. Đây là vai trò truyền thống của NSNN trong mọi mô hình kinh tế.

Việc huy động nguồn tài chính vào trong tay nhà nước để đảm bảo yêu cầu chi tiêu cần thiết phải chú ý:

– Mức động viên vào NSNN đối với thành viên trong xã hội phải hợp lý.

– Tỷ lệ động viên đối với GDP vừa phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền KT, vừa đảm bảo yêu cầu tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng của các đơn vị.

– Các công cụ kinh tế được sử dụng để tạo nguồn thu và thực hiện các khoản chi của NSNN.

* NSNN là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế – xã hội của nhà nước, nhằm khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường. Thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực:

– Về mặt kinh tế: Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện việc định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.

+ NSNN cung cấp kinh phí để đầu tư cho kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

+ Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền, cạnh tranh không hoàn hảo.

+ Thông qua thuế thực hiện việc định hướng đầu tư.

+ Tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế bằng các nguồn vay nợ nước ngoài và trong nước.

– Về mặt xã hội: Thông qua hoạt động thu – chi NSNN thực hiện tái phân phối thu nhập, đảm bảo sự công bằng xã hội.

+ Thông qua việc đầu tư của NSNN để thực hiện các chính sách VH-XH, y tế- giáo dục, dân số, việc làm,…

+ Thông qua thuế trực thu và thuế gián thu để điều tiết thu nhập, điều tiết tiêu dùng, thực hiện việc phân phối lại trong xã hội.

Tuy nhiên, trong điều kiện NSNN còn hạn hẹp, chi phí giải quyết các vấn đề XH là rất lớn, cho nên trong lĩnh vực này nhà nước triệt để thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” và phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả, chi đúng đối tượng, đúng việc nhằm nâng cao tác dụng các khoản chi NSNN đối với các vấn đề xã hội.

– Về mặt thị trường: NSNN có vai trò quan trọng để thực hiện chính sách bình ổn giá cả, thị trường, chống lạm phát.

+ Thực hiện chính sách thắt chặt hoặc nới lỏng ngân sách sẽ tác động đến cung cầu xã hội.

+ Việc tăng giảm lãi suất trên thị trường tài chính của nhà nước sẽ tác động đến tiết kiệm và đầu tư, ảnh hưởng đến cung cầu về vốn.

+ Nhà nước điều chỉnh giá cả và thị trường bằng việc sử dụng quỹ dự trữ nhà nước.

+ Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có lĩnh vực thu – chi của NSNN.

– Về mặt quan hệ tài chính quốc tế. NSNN tạo môi trường thuận lợi qua chi NSNN để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo nguồn vốn đối ứng bên trong và còn có ảnh hưởng sâu sắc đến cán cân thanh toán quốc tế, tình hình thanh toán nợ nước ngoài. Vì vậy nó có ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.



II. Thu NSNN

  1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thu NSNN

1.1 Khái niệm:

Thu NSNN, đứng về mặt pháp lý bao gồm những khoản tiền nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Tuy nhiên về thực chất, thu NSNN không bao gồm các khoản vay của nhà nước nhằm phản ánh đúng số thực thu, thể hiện chính xác số bội chi và tỉ lệ bội chi. Việc đưa các khoản vay vào thu NSNN là để tiện lợi cho hoạch toán, còn khi phân tích tình hình các nguồn hình thành NSNN và xác định mức bội chi NSNN thì phải tách khoản vay ra khỏi thu NSNN.

Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình huy động các nguồn tài chính để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm đảm bảo cho sự tồn tại của nhà nước và để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội.

1.2. Đặc điểm thu NSNN:

Thu NSNN là một mặt hoạt động cơ bản của NSNN, xét về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối của các xã hội dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực chính trị tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, có các đặc điểm sau:

– Thu NSNN gắn chặt với thực trạng KT-XH và sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, thu nhập, lãi suất…

– Thu NSNN, thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế.

– Thu NSNN là một tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội của nhà nước.

1.3. Nội dung thu NSNN

* Thuế: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc được thể chế bằng luật do các pháp nhân và thể nhân đóng cho nhà nước.

Thuế là một hình thức phân phối thu nhập được nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội vào NSNN nhằm phục vụ nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế được thiết lập trên nguyên tắc luật định, mang tính chất bắt buộc, không có tính chất hoàn trả trực tiếp.

– Trong nền kinh tế thị trường, thuế được coi là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế không những là nguồn thu quan trọng, chủ yếu của NSNN, mà còn có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Thuế góp phần thúc đẩy tích lũy tư bản; là công cụ phân phối lại, góp phần điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội; là một trong những biện pháp chế ngự lạm phát.

– Theo tính chất chuyển giao của thuế, thì thuế có hai loại: Thuế trực thu và thuế gián thu.

+ Thuế trực thu: là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế (ví dụ: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân…).

+ Thuế gián thu: là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế (như: thuế V.A.T, thuế tiêu thụ đặc biệt,…).

* Phí và lệ phí.

– Lệ phí là khoản thu của NSNN, vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính, vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN, như: lệ phí trước bạ, công chứng…

– Phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp, hay một khoản nộp có tính chất bắt buộc đối với các thể nhân và pháp nhân do được hưởng thụ những dịch vụ do nhà nước cung cấp như phí giao thông, viện phí, học phí,…

Phí và lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp. So với thuế, tính pháp lý thấp hơn.

* Các nguồn thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước

– Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;

– Tiền thu hồi vốn của Nhà nước từ các cơ sở kinh tế;.

– Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước;

– Thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên của quốc gia.

* Thu từ vay nợ

Để bù đắp thiếu hụt NSNN và đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, Nhà nước tiến hành huy động các nguồn tiền trong xã hội dưới các hình thức khác nhau trong đó phải kể đến các khoản vay nợ trong nước và nước ngoài.

* Thu khác

Ngoài các khoản thu kể trên, thu NSNN còn bao gồm các khoản tiền khác mà Nhà nước thu được như các khoản viện trợ không hoàn lại; các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước như đóng góp cho quỹ an ninh, quỹ phòng chống tiên tai, ủng hộ quỹ vì người nghèo; thu từ hợp tác với nước ngoài; thu tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản, kết dư Ngân sách,…



  1. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN

Ở Việt Nam, trong quá trình cải cách và hoàn thiện hệ thống thu Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là đối với hệ thống thuế, cần tôn trọng và chấp hành các nguyên tắc căn bản như sau:

– Nguyên tắc ổn định và lâu dài: nguyên tắc này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá Ngân sách, vừa kích thích người nộp thuế cải tiến đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc này đòi hỏi trong những điều kiện hoạt động kinh tế bình thường thì phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế; đồng thời tỷ lệ động viên của Ngân sách Nhà nước phải thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Thực hiện nguyên tắc này cần phải lựa chọn đối tượng tính thuế sao cho đối tượng đó ít có sự biến động. Kinh nghiệm cho thấy thuế đánh trên hàng bán (thuế đánh trên chi phí) có khuynh hướng ổn định hơn thuế đánh trên thu nhập. Bởi vì, khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập giảm đi làm giảm nguồn thu của Ngân sách Nhà nước từ thuế thu nhập, nhưng người ta vẫn phải mua sắm, chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu cho nên nguồn thu từ thuế đánh trên tiêu dùng vẫn không giảm hoặc biến động không lớn.

– Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. Để đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong xây dựng hệ thống thuế thì cần phải kết hợp giữa các sắc thuế trực thu với các sắc thuế gián thu.

– Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn: Nguyên tắc này đòi hỏi trong thiết lập hệ thống thuế, các điều khoản quy định của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế,… để tránh tình trạng lách luật, trốn thuế. Hơn nữa, việc sửa đổi bổ sung các điều khoản trong các sắc thuế không phải lúc nào cũng thực hiện được, cho nên các điều khoản trong luật phải bao quát và phù hợp với hoạt động của nền kinh tế xã hội.

– Nguyên tắc đơn giản: Nguyên tắc này đòi hỏi trong mỗi sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tạo thuận lợi cho cả người nộp thuế và cơ quan thu thuế, tránh được những hiện tượng tiêu cực như trốn, lậu thuế, hối lộ,…



III. Chi NSNN

  1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của chi NSNN.

1.1 Khái niệm

Đứng về mặt pháp lý, chi NSNN là những khoản chi tiêu do chính phủ hay các pháp nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội.

Về mặt bản chất, chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi tiêu cho bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội mà nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định.

Chi NSNN là sự phối hợp các quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN. Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các quỹ trước khi đưa vào sử dụng; quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN.

1.2 Đặc điểm:

– Chi NSNN gắn chặt với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế- xã hội, chính trị mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ nhất định.

– Chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi NSNN là cơ quan quyền lực cao nhất của NN – Quốc hội.

– Chi NSNN được xem xét hiệu quả ở tầm vĩ mô.

– Chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp.

– Chi NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, nói chung là những phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ.

1.3 Nội dung chi NSNN.

– Nếu căn cứ vào mục đích kinh tế – xã hội của các khoản chi, người ta có thể phân chia các khoản chi thành hai loại:

+ Chi cho đầu tư phát triển sản xuất;

+ Chi cho tiêu dùng.

– Nếu căn cứ vào lĩnh vực chi, người ta có thể chia thành các loại: chi cho y tế; chi cho giáo dục; chi cho phúc lợi xã hội; chi cho quản lý nhà nước; chi đầu tư kinh tế; chi cho an ninh quốc phòng.

– Nếu căn cứ theo yếu tố có thể chia thành: chi thường xuyên; chi đầu tư; chi khác.

– Nếu căn cứ theo chức năng của nhà nước thì có thể chia thành: chi nghiệp vụ (như : chi lương, trả nợ, hưu trí, trợ cấp, trợ giá,…); chi phát triển (như: kinh tế, an ninh quốc phòng, quản lý hành chính,…).



  1. Bội chi NSNN và xử lý bội chi NSNN

Bội chi NSNN là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do thay đổi chính sách thu – chi của nhà nước (gọi là bội chi cơ cấu); hoặc có thể do thay đổi các chu kỳ kinh tế (bội chi chu kỳ). Khi bội chi cơ cấu tăng lên có nghĩa là chính phủ đang dùng chính sách tài chính để kích thích nền kinh tế.

Dù xảy ra do nguyên nhân nào thì bội chi ngân sách vẫn là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh tế nếu không có biện pháp xử lý đúng đắn. Biện pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề này là:

– Tăng thu, giảm chi

– Vay trong nước và vay nước ngoài

Biện pháp tăng thu giảm chi không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được bởi vì nó thường xảy ra hai nghịch lý khó giải quyết. Một là, trong khi mức tăng GDP chưa lớn, nếu tăng thu thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng đầu tư và tiêu dùng ở khu vực tư nhân, giảm động lực phát triển kinh tế; hai là, giảm chi sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế.

Ngày nay, để xử lý bội chi ngân sách, ngoài biện pháp tăng thu, giảm chi, hầu hết các nước đều sử dụng đến biện pháp vay trong nước và vay ngoài nước.

IV. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN

1.Tổ chức hệ thống NSNN

Khái niệm: Là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách. Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhưng phải bảo đảm 2 điều kiện sau:

– Nhiệm vụ cấp chính quyền là phải toàn diện bao gồm quản lý hành chính xã hội và cơ cấu tổ chức quản lý phát triển KT trong vùng lãnh thổ mà mình cai quản.

Ví dụ: Đà nẵng thì cơ cấu quản lý từ UBND thành phố, quận, huyện và mỗi cấp có sự quản lý và phát triển về các ngành KT, văn hoá, nhu cầu và mong muốn của người dân, sự tin tưởng của các cấp lãnh đạo và sự phối hợp giữa các ban ngành như thế nào.

– Khả năng thu thì phải lớn hơn nhu cầu chi.

Hệ thống NSNN ta hiện nay:

  1. Phân cấp quản lý NSNN

2.1 Khái niệm:

Nếu NSNN là thống nhất và duy nhất do TW trực tiếp quản lý và sử dụng thì phân cấp NN là sự uỷ quyền của TW cho địa phương thực hiện một số nghiệp vụ thu chi cần thiết cho NSNN.

Nếu NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp NS thì phân cấp NN là sự phân chia quyền hạn trong quản lý điều hành nhiệm vụ thu chi của NSNN.

2.2 Nội dung của phân cấp NSNN

– Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp NSNN trong việc ban hành chế độ chính sách.

– Giải quyết mối quan hệ vật chất trong phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi.

– Giải quyết mối quan hệ quá trình lập NS, chấp hành NS đến khâu quyết toán NS

2.3 Nguyên tắc trong phân cấp NSNN

– Đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW

– Đảm bảo công bằng trong phân cấp NS

Tóm lại : Thực chất của phân cấp NSNN là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc sử dụng NSNN.

2.4 Vai trò của các cấp NS

* Vai trò của NSTW:

– Xác định hướng hoạt động của các cấp NS

– Thực hiện nhiệm vụ KT – XH toàn quốc

– Điều hoà NS trong cả nước

* Vai trò của NS Địa phương

– Thực hiện nhiệm vụ phát triển KT – XH của địa phương: bêtông hoá nông thôn tại các con đường nhỏ, làm đường giao thông, kênh, mương nội đồng.

– Quản lý một phần vốn NSTW



V. Chu kỳ quản lý NSNN

Quá trình quản lý NSNN được tiến hành từ khi hình thành ngân sách đến khi kết thúc để chuyển sang ngân sách mới. Bao gồm các khâu :

Hình thành ngân sách à Chấp hành ngân sách à Quyết toán ngân sách

  1. Hình thành ngân sách

Đây là quá trình bao gồm các công việc: Lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và thông báo ngân sách. Trong quá trình này, lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của quá trình quản lý NSNN. Lập ngân sách thực chất là dự toán thu – chi của ngân sách trong một năm ngân sách.

  1. Yêu cầu

– Phải tuân thủ vào hệ thống các chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức, phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội.

– Phải đảm bảo trình tự và thời gian qui định

– Phải đảm bảo mối quan hệ giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị.

  1. Căn cứ:

– Phải căn cứ phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng.

– Phải căn cứ vào kết quả phân tích việc thực hiện dự toán ngân sách thời gian qua. Đây là căn cứ quan trọng bổ sung những kinh nghiệm cho việc lập dự tóan trong kỳ kế hoạch.

  1. Phương pháp và trình tự lập kế hoạch NSNN

Tóm tắt phương pháp xây dựng kế hoạch NSNN theo sơ đồ dưới đây

– Ở cấp tổng hợp

– Ở cấp làm nghĩa vụ đối với NSNN

Lập NSNN là công việc quan trọng, nhưng việc hình thành NSNN còn phải thực hiện công việc phê chuẩn và thông báo NSNN.

Quá trình này được thực hiện theo sơ đồ sau:



  1. Chấp hành NSNN:

Sau khi ngân sách được phê duyệt và năm ngân sách bắt đầu thì triển khai thực hiện ngân sách. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu và thực hiện chi NSNN.

2.1 Tổ chức chấp hành dự toán thu

Mục tiêu là không ngừng bồi dưỡng phát triển các nguồn thu, tìm mọi biện pháp đảm bảo tỉ lệ động viên chung đã được phê duyệt. Để đạt được mục tiêu thu NSNN cần thực hiện các biện pháp sau:

– Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách chế độ động viên thích hợp vừa đảm bảo mức thu, vừa khuyến khích SX – KD phát triển nhằm nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.

– Nâng cao công tác tuyên truyền, làm cho mọi thành viên thấy rõ trách nhiệm của mình đối với NSNN

– Kiện toàn tổ chức bộ máy thu; đổi mới hoàn thiện công tác quản lý thu; nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ quản lý thu

2.2 Tổ chức chấp hành dự toán chi

Mục đích là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội một cách tiết kiệm và hiệu quả. Để đạt mục đích đó, cần thực hiện các yêu cầu sau:

– Cấp phát kinh phí phải trên cơ sở hệ thống các định mức tiêu chuẩn

– Cấp phát kinh phí phải theo kế hoạch đã được duyệt

– Đổi mới phương thức cấp vốn theo hướng nhanh, gọn, dễ kiểm tra và thống nhất qua kho bạc nhà nước.

Hiện nay, tùy theo lĩnh vực chi, trong cấp phát kinh phí thường có các phương thức như sau:

+ Phương thức “ghi thu – ghi chi”, là phương thức thu, chi tại chỗ, tại thời điểm. Đơn vị tự thực hiện sau đó quyết toán với NSNN. Phương thức này có ưu điểm là kịp thời, nâng cao trách nhiệm của đơn vị; nhưng có nhược điểm là nhà nước khó kiểm soát.

+ Phương thức “gán thu – bù chi”, chủ yếu thực hiện ở các đơn vị sự nghiệp. Phương thức này có ưu điểm là nâng cao trách nhiệm tự hoạch toán của đơn vị, giảm bớt gánh nặng cho NSNN; nhưng nhược điểm dễ tạo ra các hoạt động sai trái.

+ Phương thức cấp, phát theo “lệnh chi”. Ưu điểm là cấp phát trọn gói, dễ theo dõi, quản lý; nhưng có nhược điểm tạo ra ứ đọng vốn tại cơ sở

+ Phương thức “cấp phát theo hạng mức”, áp dụng cho đơn vị hành chính sự nghiệp; định kỳ cơ quan tài chính cấp phát hạng mức và đơn vị đến kho bạc rút tiền về chi. Ưu điểm là quản lý tập trung, tránh ứ đọng vốn tại cơ sở; nhưng vẫn khó kiểm tra, kiểm soát.

+ Phương thức “cấp phát ủy quyền”, chủ yếu được áp dụng giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương.

2.3. Xây dựng dự toán: Việc xây dựng dự toán thu – chi quý, tháng nhằm đánh giá được khả năng hoàn thành dự toán NSNN, tìm ra biện pháp thực hiện dự toán NSNN.



3. Quyết toán NSNN

Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong quá trình quản lý NSNN. Thông qua quyết toán NSNN ta có thể hình dung bức tranh toàn cục hoạt động kinh tế – xã hội của nhà nước thời gian qua nhằm đúc kết rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho việc điều hành NSNN. Do đó yêu cầu quyết toán NSNN phải chính xác, trung thực và kịp thời.

Muốn như vậy cần phải soát lại toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân sách; đổi mới quá trình lập, báo cáo, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán NSNN; nâng cao vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong việc phê chuẩn NSNN.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *